25 Tháng 11, 2025 | Di tích lịch sử văn hóa
Viêm Xá còn gọi là làng Diềm, thuộc phường Kinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh, một làng Việt cổ có lịch sử lâu đời. Viêm Xá nổi tiếng với những di sản văn hóa mang bản sắc riêng của làng Quan họ cổ, đó là những ngôi đình, đền, chùa cổ kính uy nghi cùng những ngõ xóm, đường đê, đồng bãi xanh mướt bên dòng sông Cầu hiền hòa như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Về với làng Diềm được ví như một cuộc hành hương trở về ngôi làng cổ xưa của vùng quê Bắc Ninh yên bình, mộc mạc với hình ảnh đặc trưng “Cây đa, bến nước, sân đình”. Đặc biệt đây chính là quê hương sản sinh ra những làn điệu dân ca Quan họ đằm thắm, ngọt ngào được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Những điểm đến không thể bỏ lỡ tại làng Diềm:
Đặt chân tới làng Diềm du khách sẽ thấy ngay cổng làng phủ đầy rêu phong theo năm tháng. Trên cổng đề 4 chữ “Vãng du hữu lợi” có nghĩa “qua làng là có lợi" như lời chào lịch sự với du khách, thể hiện cốt cách của con người quê hương Thủy tổ Quan họ trọng tình, hiếu khách. Bước qua cổng làng, du khách có thể cảm nhận được không gian yên bình của làng quê với những hàng cây cổ thụ rợp bóng xanh mát bao quanh các kiến trúc đơn sơ, cổ kính.

Cổng làng Diềm đề 4 chữ “Vãng du hữu lợi” có nghĩa “qua làng là có lợi”
* Đền thờ Vua bà - Thủy tổ Quan họ
Đền Vua Bà là nơi duy nhất trong 49 làng Quan họ gốc thờ “Thủy tổ Quan họ” - Đức Vua Bà Nhữ Nương, công chúa con gái Hùng Vương thứ 6. Tương truyền, bà đã rời bỏ chốn cung đình, về đất Viêm Xá khai phá ruộng đồng, dạy dân dệt lụa, lập làng và sáng tạo ra lối hát Quan họ. Dân làng Diềm vẫn truyền nhau câu ca:
“Thủy tổ quan họ làng ta

Cổng Đền thờ Thủy tổ Quan họ
Đền Vua Bà là quần thể các công trình gồm: Cổng, Bái đường, Hậu cung… kiến trúc truyền thống với những góc đao cong vút, mảng chạm khắc, đắp vẽ trang trí cầu kỳ, tinh xảo. Tại đền còn lưu giữ nhiều tư liệu, hiện vật chứa đựng giá trị về lịch sử,văn hóa, nghệ thuật, như: hai con Sấu đá, Cây hương đá thế kỷ XVII, cùng Long đình, tượng thờ, hoành phi, câu đối, đồ thờ tự sơn son, thiếp vàng lộng lẫy uy nghi.
* Đình Diềm: Tựa đoá sen cổ nở giữa làng quê, đình Diềm được xây dựng vào năm 1692, thờ hai vị danh tướng Trương Hống - Trương Hát, người đã từng “đạp sóng xung trận, gìn giữ non sông” chống quân xâm lược nhà Lương vào thế kỷ thứ VI.

Đình Diềm - một trong ba ngôi đình nổi tiếng xứ Kinh Bắc
Tại Đình Diềm còn bảo lưu được bức cửa võng có niên đại TK XVII, là một kiệt tác nghệ thuật chạm khắc gỗ độc nhất vô nhị đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2020. Nét độc đáo của cửa võng đình Diềm không chỉ nằm ở kích thước hay kỹ thuật chạm khắc, mà còn được thể hiện ở các chi tiết, chủ đề trang trí sinh động, đặc sắc. Hình ảnh người phụ nữ xuất hiện trong các mảng chạm khắc, được tôn vinh, ngự trên đỉnh cao linh thiêng của đình làng thể hiện khát vọng, ước mơ về sự bình đẳng trong xã hội. Tác phẩm mang hơi thở thời đại với hình tượng người phụ nữ ở vị trí trung tâm, một tuyên ngôn đầy nhân văn về vai trò và phẩm hạnh của nữ giới trong tâm thức dân gian Kinh Bắc. Đình Diềm không chỉ là một di tích - đó là hồn làng hóa gỗ, hóa lời ca, hóa tinh thần bất diệt của người dân xứ Quan họ

Cửa võng Đình Diềm được coi là kiệt tác nghệ thuật chạm khắc gỗ độc nhất vô nhị đã được
Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2020
* Đền Cùng - Giếng Ngọc - Tưởng niệm hai Công chúa triều Lý
Là điểm đến mà bất cứ du khách nào cũng muốn ghé thăm khi có dịp về làng Diềm. Nằm ngay dưới chân núi Kim Lĩnh, đền Cùng là ngôi đền linh thiêng và từ lâu đã được dân gian vùng Kinh Bắc truyền nhau câu ca: “Dù ai đi lễ bốn phương. Không bằng linh hiển thắp hương Đền Cùng”. Đền Cùng mang trong mình huyền tích về hai nàng công chúa Ngọc Dung và Thủy Tiên, dung nhan tựa hoa, tài đức vẹn toàn, con gái vua Lý Thánh Tông. Truyền rằng, hai bà vì thương dân nên đã rời chốn hoàng cung lộng lẫy, về đây giúp dân khai khẩn đất hoang, diệt trừ thú dữ, trông giữ kho lương giữa thời loạn lạc. Khi mất đi, các bà hóa thần, che chở cho dân làng đời đời, để rồi nhân dân kính ngưỡng lập đền thờ ngay trên nền kho cũ gọi là Đền Cùng.

Cổng Đền Cùng - Giếng Ngọc
Phía trước đền là Giếng Ngọc, dòng nước trong vắt như giọt ngọc trời ban. Vì vậy, rất nhiều du khách thập phương đến nơi đây để được một lần thưởng thức hương vị nước giếng. Nước lấy từ giếng có thể uống trực tiếp mà không cần phải đun sôi vì rất sạch. Nước trong Giếng Ngọc được lấy từ trong núi Kim Lĩnh, thấm qua nhiều tầng đá ong nên mang một hương vị đặc trưng không nơi đâu sánh được. Cũng bởi vậy mà người làng Diềm thường chỉ lấy nước giếng Ngọc về để pha trà đãi khách quý, hay nấu rượu dùng trong các dịp quan trọng. Quanh năm nước giếng trong mát và không bao giờ cạn, tương truyền vì uống nước ở giếng này mà giọng hát Quan họ người làng Diềm rất vang, dền, nền nẩy, say đắm lòng người. Giếng còn cất giữ huyền thoại về những ông cá thần nghìn tuổi, lặng lẽ ẩn mình dưới đáy, như những người gác mộng thiêng của làng.
Du khách thập phương về Đền Cùng - Giếng Ngọc đều muốn tự tay xuống xin nước trong giếng để uống, rửa mặt tại chỗ hoặc mang về với mong ước may mắn, tài lộc và bình an, hạnh phúc, sức khỏe cho cả gia đình trong suốt cả năm.

Các liền anh, liền chị Quan họ biểu diễn tại Đền Cùng - Giếng Ngọc
* Hội Diềm

Tái hiện cảnh vua Bà đi dạo ấp Viêm Trang trong Lễ hội
* Nét độc đáo trong sinh hoạt văn hóa Quan họ ở làng Diềm
Nét độc đáo trong không gian sinh hoạt văn hóa Quan họ ở làng Diềm là tổ chức hát Quan họ trùm đầu vào mùa thu, trong những đêm trăng thơ mộng. Các liền anh Quan họ từ nhà chứa của mình rủ nhau sang nhà chứa của bọn Quan họ nữ, đến bờ rào họ trùm kín đầu bằng khăn hát vào. Khi ấy, các liền chị cũng trùm khăn ra đứng ở thềm nhà chứa hát đáp lại. Các liền anh, liền chị nơi đây đều lấy giọng ca làm trọng, hát mộc là chính. Đó là sự rung cảm, đồng điệu trong tâm hồn, trong lao động sản xuất. Theo các bậc cao niên làng Diềm thì Quan họ nơi đây chia thành 3 thang bậc: Thang bậc thứ nhất là “ca đủ lối, đủ câu”; thang bậc thứ hai phải đảm bảo “Vang, rền, nền, nảy”; thang bậc thứ 3 là “Quan họ cựu”. “Quan họ cựu” có trình độ xuất sắc, nổi bật và vượt xa những nghệ nhân thông thường. Một canh hát đối đáp của Quan họ cổ thường phải hát đối với nhau: Những câu chào hỏi hát theo giọng "La rằng", sau đó là "giọng vặt" và cuối cùng là "giọng giã". Để trở thành một cặp hát và hát được với nhau thì giọng của hai người phải hòa nhịp như một.
Hát đối đáp giữa các liền anh, liền chị quan họ
Nhà chứa Quan họ thôn Viêm Xá không gian văn hóa cộng đồng đặc thù của người Quan họ.
* Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh

Toàn cảnh nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh - công trình đạt giải bạc giải thưởng kiến trúc quốc gia năm 2023
Trong không gian của làng Diềm còn có Nhà hát dân ca Quan họ Bắc Ninh, công trình được lấy cảm hứng từ cấu trúc mái đình, không chỉ mang đến nét kiến trúc độc đáo, thể hiện hơi thở của thời đại, mà còn gìn giữ vẹn nguyên cốt lõi của các giá trị truyền thống. Đây là một trong những điểm đến hấp dẫn, thu hút các tầng lớp nhân dân và du khách trong nước, quốc tế đến tham quan chiêm ngưỡng, thưởng thức những vẻ đẹp văn hóa Quan họ, góp phần bảo tồn, lan tỏa và phát huy giá trị di sản.

Nghệ sĩ Nhà hát Quan họ trên thuyền vào các ngày mùng 1 và 15 (âm lịch) trên hồ Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh

Du khách tham quan, chụp hình lưu niệm tại nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh
Xem nhiều nhất
25 Tháng 8, 2023
15 Tháng 12, 2023
11 Tháng 3, 2024
Loading...