03 Tháng 11, 2025
                                        
          Đồng Thông là tên một địa danh nằm ngay dưới chân núi phía sườn Tây Yên Tử (nay là tổ dân phố Mậu thuộc xã Tây Yên Tử tỉnh Bắc Ninh. Vào đầu những năm 2005, cái tên khu du lịch sinh thái Đồng Thông được một số những người yêu thích loại hình du lịch khám phá trải nghiệm, hoặc những nhà khoa học nghiên cứu thường nhắc đến. 
   
  Khu bảo tồn thiên nhiên nhiều tiềm năng du lịch dưới chân Yên Tử  
 Đồng Thông nằm ngay dưới chân núi Yên Tử với đỉnh cao nhất là đỉnh núi Yên Tử cao 1.068m so với mặt nước biển, thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử . Trong Tỉnh Bắc Ninh khu vực rừng Yên Tử có vị trí vô cùng quan trọng. Đây là khu vực bảo tồn thiên nhiên và điều tiết khí hậu cho toàn vùng Đông Bắc Việt Nam, khu vực có nguồn tài nguyên rừng khá lớn có những khu rừng nguyên sinh còn tương đối nguyên vẹn, có hệ động thực vật quý hiếm, phong phú. Quần thể di tích lịch sử Chùa Đồng và các chùa trên dãy Yên Tử là cõi tâm linh, gắn liền với Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Khu du lịch Đồng Thông cũng là nơi bảo tồn nhiều loài động vật quý hiếm. Nơi đây, có thảm động thực vật rất phong phú, đa dạng với nhiều loài gỗ, thảo dược quý hiếm đang được Nhà nước quản lý bảo tồn, cấm khai thác. 
 Đồng Thông có một vị trí tương đối đặc biệt trong khu vực, có đường tỉnh 293 nối quốc lộ 31 tạo thành sự kết nối khu vực với thành phố Bắc Ninh, các điểm di tích đến Tây Yên Tử và tỉnh Lạng Sơn….đường tỉnh 291 nối quốc lộ  279 đi hướng Lạng Sơn và là đường ngắn nhất đến khu du lịch Hạ Long. Từ Đồng Thông đi theo đường mòn lên đến Chùa Đồng- Yên Tử cũng chỉ mất khoảng 2 giờ đồng hồ. Trong khu vực còn có nhiều  di tích lịch sử văn hoá đã được xếp hạng và những khu vực có cảnh quan thiên nhiên đẹp có tiềm năng để khai thác du lịch như suối Nước Vàng, Thác Giót- Ao Vua, hang Dơi, suối Mơ, thác Ba tia đặc biệt là quần thể khu di tích lịch sử văn hoá Yên Tử. Khu vực này được đánh giá là địa điểm hội tụ những giá trị tài nguyên vô cùng phong phú cho sự phát triển của nhiều loại hình du lịch. 
  Truyền tích về miền gái đẹp  
 Nằm ngay dưới chân phía sườn Tây núi Yên Tử, khu vực Đồng Thông – bản Mậu từ lâu đã nổi tiếng với truyền thuyết về bản có nhiều con gái đẹp “tiến vua”. Nhiều người đã không quản ngại đường xa, vượt cả trăm cây số tìm về bản,  mong tận mắt chiêm ngưỡng nhan sắc những bông hoa của núi rừng được truyền tụng có dòng dõi phi tần. Cư dân bản địa ở đây chủ yếu là nhóm người dân tộc Dao dòng Dao Thanh Phán sống quần cư lâu đời dưới những ngọn núi cao mà ngay phía trên đỉnh là chùa Đồng thuộc khu di tích Yên Tử. Bên những cánh rừng u tịch trong khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, người Dao ở bản Mậu từ đời này qua đời khác truyền và còn giữ được nhiều nét văn hoá truyền thống. Trong đó có nghề thêu thổ cẩm, nghề hái thuốc nam và con gái bản thì đẹp có tiếng trong vùng. 
 Một minh chứng để người dân bản tự hào đó là vào những năm 2000, cô gái Bàn Thị Giản – một người con của bản đã đạt giải nhất trong cuộc thi sắc đẹp các tỉnh miền núi phía Bắc; hoặc "Người đẹp hoa cúc" Trịnh Thị Hương, sinh năm 1983, đứng trong tốp 10 người đẹp của cuộc thi Hoa hậu các dân tộc Việt Nam năm 2007. Hương tham gia cuộc thi khi đang là sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Lý giải về việc bản có nhiều con gái đẹp các cụ cao niên trong vùng cho rằng, cách đây hơn 700 năm, khi Phật Hoàng xuống tóc lên núi Yên Tử xuất gia lập nên thiền phái Trúc Lâm. Văn võ bá quan trong triều nhiều người không thuận. Họ lên núi tìm đến nhà vua thuyết phục ngài về triều. Để lung lạc ý chí xuất gia của nhà vua, họ đưa lên núi cả những phi tần, mỹ nữ xinh đẹp được vua yêu chiều nhất để thuyết phục nhà vua. Thế nhưng, tất cả đều không khiến nhà vua thay đổi ý trí. Ngài đã quyết định hạ chiếu truyền ngôi cho Thái tử, tự nhận mình là Thái Thượng Hoàng rồi tuyên cấm không cho ai nói về chuyện quay về triều. Đối với các phi tần, nhà vua hạ chỉ cấp bổng lộc và cho họ xuất cung hồi hương. Các phi tần khi đó có người tìm đường về quê, cũng có người tìm đến các ngôi chùa gần vùng Yên Tử xuất gia tu hành. Lại có những người không về quê mà ở lại dọc các con đường dưới chân Yên Tử lấy chồng, sinh con, lập các làng bản dưới chân núi. Trong các làng bản ấy có bản người Dao nằm dưới chân núi phía Tây Yên Tử đó chính là khu vực Đồng Thông, Bản Mậu ngày nay. Trải qua bao thăng trầm năm tháng từ nhiều đời nhưng con gái bản Mậu- Đồng Thông vẫn còn lưu lại những nét đẹp như ngọc ngà, da mịn như nhung, môi hồng như hoa và cũng rất giỏi giang, đảm đang nơi núi rừng Tây Yên Tử. 
  Cũng có một truyền thuyết khác lưu lại rằng: Ngày xưa, cạnh chỗ nhà sàn văn hóa của bản bây giờ có cái giếng nước trong vắt, ngọt lịm. Con gái bản Mậu thường ra đây múc nước rửa mặt, tắm gội nên cô nào cũng trắng trẻo, xinh đẹp bội phần. Thế rồi bao nhiêu cô gái xinh đẹp cứ lần lượt bị con trai nơi khác đến tán tỉnh rồi lấy làm vợ. Đám trai bản Mậu mới lấp giếng đi khiến các cô không dám múc nước giếng tắm gội nữa. Nhưng không hiểu sao con gái ở đây vẫn cứ “sắc nước hương trời”. 
   
  Đặc sắc văn hóa truyền thống người Dao  
 Nói đến vùng đất Đồng Thông- bản Mậu, người dân nơi đây không chỉ nổi tiếng với đức tính cần cù, chịu khó làm ăn mà ngày nay, dù chịu nhiều tác động của sự du nhập, giao thoa nhiều loại hình văn hóa thì người Dao ở đây vẫn giữ hầu như nguyên vẹn những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của tộc người như gìn giữ chữ viết, tiếng nói người Dao, gìn giữ những điệu dân ca truyền thống, giữ tục thờ Bàn Vương, lễ cấp sắc, nghề thêu ren truyền thống và nghề làm thuốc nam nổi tiếng... 
 Lễ cấp sắc là một nghi thức đặc trưng và không thể thiếu được của người đàn ông Dao. Đối với người Dao, đàn ông phải trải qua lễ cấp sắc mới được cộng đồng làng bản công nhận đã trưởng thành, được tham gia các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng của dòng họ. Lễ cấp sắc của người Dao gồm nhiều nghi lễ như: Đặt tên âm, lễ cấp sắc đèn, lễ đội đèn, lễ hạ đèn, lễ giao binh, lễ trình Ngọc Hoàng, lễ cấp bản sắc, lễ tạ ơn tổ tiên... Thời gian tiến hành lễ cấp sắc  thường kéo dài từ một đến ba ngày. 
 Còn đối với người phụ nữ Dao, thêu thùa là một công việc bắt buộc cần phải biết. Trước kia, những phụ nữ dân tộc Dao ở Tây Yên Tử thường bắt đầu học thêu từ lúc 9-10 tuổi. Khi chuẩn bị lấy chồng, các cô gái Dao sẽ thành thục nghề thêu và tự thêu cho mình bộ váy áo, khăn đội đầu thật là rực rỡ để diện vào ngày cưới. Kỹ thuật thêu của người Dao khá cầu kỳ, tỉ mỉ, thể hiện qua những hình vuông, hình chữ nhật màu đỏ, vàng, trắng trên quần; họa tiết cây vạn hoa, hình cách đoạn trên khăn đội đầu… Những hoa văn thêu đều mang ý nghĩa sâu sắc, gắn liền với đời sống, tín ngưỡng, sản xuất nông nghiệp, ước mong cuộc sống có được mọi điều viên mãn, như: hình lưỡi bừa, con đường, con chim, chân chó, hoa 8 cánh, mặt trời, lá cây…Những biểu tượng truyền thống ấy được phụ nữ Dao khéo léo phối màu, cân đối các họa tiết linh hoạt cho phù hợp với những sản phẩm có chất liệu, kích thước, mục đích sử dụng khác nhau, như: khăn đội đầu, áo, váy, vỏ gối, quần áo nam và sau này là những sản phẩm lưu niệm như: miếng lót ly, cốc; túi xách, túi đựng điện thoại, ví đựng đồ dùng, những miếng khăn trang trí, trải bàn… Mỗi sản phẩm lại toát lên những ý nghĩa, nét đẹp khác nhau phục vụ ứng dụng trong cuộc sống. 
 Những năm trở lại đây, khi cuộc sống phát triển hơn, hình ảnh những người phụ nữ Dao Thanh Phán ngồi thêu bên bậc thềm nhà ngày càng ít dần, nhất là với lớp trẻ. Để gìn giữ nét văn hoá truyền thống dân tộc, vào khoảng năm 2012, Câu lạc bộ thêu ren thị trấn Tây Yên Tử được những người phụ nữ dân tộc Dao thành lập và truyền nghề cho thế hệ trẻ. Bằng sự nhiệt huyết, trách nhiệm gìn giữ nghề của dân tộc mình, nhóm các bà Bàn Thị Duyên, Bàn Thị Bình, Triệu Thị Bình, Triệu Thị Xoan…cùng một số phụ nữ khác đã tập hợp lại để truyền lửa, giữ nghề. 
 Núi rừng Yên Tử có hệ động thực vật phong phú, đa dạng với nhiều loài cây thuốc có giá trị cao. Người Dao Tây Yên Tử ai ai cũng có thể nhận ra những cây thuốc trên rừng. Những người trung niên trong bản đều nhận biết được những loại cây thuốc chữa bệnh thông thường như thuốc chữa dạ dày, thuốc chữa cảm, chữa đau xương khớp, cầm máu, giảm đau hay thuốc tắm lá phục hồi sức khoẻ, nhất là cho phụ nữ sau sinh của người Dao. Ngày nay, nghề thuốc nam vẫn được gìn giữ và lưu truyền ở bản Mậu. Người già vẫn dạy con cháu cách nhận biết và hái thuốc. Trong bản có nhiều hộ gia đình làm nghề thuốc như chị Triệu Thị Hoa, bà Bàn Thị Duyên, bà Bàn Thị Bình hay ông Triệu Tiến Hồng. Những năm trước đây, người Dao ở bản Mậu còn vượt rừng Yên Tử qua chùa Đồng sang phía Đông Yên Tử bán thuốc cho người hành hương về đất Phật Yên Tử. Những năm gần đây, khi khu du lịch Tây Yên Tử đi vào khai thác, họ mở các gian hàng bán thuốc ngay trong khu du lịch Tây Yên Tử gần bản. Tại gian trưng bày sản phẩm OCOP của Ban quản lý khu du lịch cũng có một kệ hàng bày bán các sản phẩm thuốc lá người Dao. 
 Để giữ gìn và bảo tồn bền vững các bài thuốc lá, người Dao ngoài việc bảo nhau không khai thác triệt để cạn kiệt nguồn tài nguyên từ rừng mà họ còn đưa các cây thuốc trên rừng về vườn nhà trồng, chăm sóc để khai thác bền vững. Chị Triệu Thị Hoa cho biết: Mỗi khi lên rừng hái thuốc người dân thường không nhổ cả gốc rễ mà để lại mầm cho cây sinh trưởng tiếp. 
   
            Khai thác tiềm năng để phát triển du lịch  
 Xác định được lợi thế, tiềm năng của vũng đất Tây Yên Tử nói chung và khu vực Đồng Thông nói riêng, ngày 29/10/2013, tỉnh Bắc Giang đã có quyết định số 105/QĐ-UBND về việc Quy hoạch Xây dựng và Bảo tồn tổng thể hệ thống Di tích và Danh thắng Tây Yên Tử tỉnh Bắc Giang”. Trong các nghị quyết về phát triển du lịch của tỉnh qua các giai đoạn 2015- 2020;  2021-2025, định hướng đến năm 2030, khu vực Đồng Thông, Tây Yên Tử luôn là một điểm nhấn không thể thiếu trong cả định hướng phát triển về không gian và sản phẩm du lịch đặc thù đó là khai thác tour du lịch “ Hành trình theo dấu chân Phật Hoàng ” đã và đang được xây dựng, dần hình thành nhằm khai thác giá trị văn hóa, tâm linh của “ Con đường Hoằng Dương Phật pháp   của các Phật tổ Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử” . 
 Từ căn cứ quy hoạch này, năm 2014, Khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử  được triển khai xây dựng. nhằm kết nối để bảo tồn, tôn tạo và phát huy tốt giá trị các di sản danh thắng khu vực Tây Yên Tử trên địa bàn với khu danh thắng Yên Tử (Đông Yên Tử - Quảng Ninh) với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, khôi phục lại con đường hành hương trong không gian văn hóa chung của vùng. Giai đoạn I của dự án đã được hoàn thành và đưa vào khai thác năm 2019 với tuyến cáp treo hiện đại. Quy hoạch tổng thể của KDL được chia thành 02 phân khu chức năng: phân khu tham quan sinh thái – tâm linh và phân khu nghỉ dưỡng sinh thái – giải trí. Các hạng mục chính như: quảng trường trung tâm, vườn ngũ hành, đồi vô cực – hệ thống 10 bức tượng tái hiện hành trình cuộc đời Phật hoàng, tuyến cáp treo, chùa Hạ và chùa Thượng. Một số công trình dịch vụ khác như bãi đỗ xe, hồ điều hòa, nhà hàng ven suối…Hiện đơn vị đầu tư khu du lịch tâm linh sinh thái Tây Yên Tử đang tiếp tục đầu tư xây dựng 7 phân khu chức năng đặc trưng với các hạng mục được xây dựng như: Tuyến phố đi bộ "Hoằng dương lộ"; công viên 7 kỳ quan phật giáo thế giới thu nhỏ; khu cắm trại ngoài trời; điêu khắc mặt Phật; cổng quảng trường và vườn tứ đại; cầu vồng kính; khu lưu trú, nghỉ dưỡng… nhằm xây dựng một khu du lịch văn hóa kết hợp tâm linh- sinh thái nổi bật và tiêu biểu của tỉnh. 
 Hiện nay, ngoài khu du lịch tâm linh sinh thái Tây Yên Tử thì ngay dưới chân núi bên sườn Tây Yên Tử  thuộc khu vực Đồng Thông- Bản Mậu thuộc thị trấn Tây Yên Tử, một số điểm du lịch cộng đồng đã được hình thành và bước đầu đi vào hoạt động tạo nên những sản phẩm du lịch đặc sắc của địa phương. Đó là điểm du lịch cộng đồng bản Mâu; điểm du lịch thác Ba Tia; Điểm du lịch sinh thái Đồng Thông…Tại các điểm du lịch này, người dân đã xây dựng các cơ sở lưu trú, tổ chức các dịch vụ phục vụ du lịch như dịch vụ hướng dẫn du khách khám phá trải nghiệm cuộc sống của người dân địa phương, phục vụ nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi, lưu trú, dịch vụ tắm thuốc lá người Dao… 
   
  Để Du lịch dưới sườn Tây Yên Tử phát triển bền vững  
 Hiện nay, khu vực Đồng Thông- Bản Mậu và vùng lân cận đã hình thành khá nhiều các mô hình kinh doanh du lịch cộng đồng, nhà lưu trú du lịch. Trừ khu du lịch tâm linh sinh thái Tây Yên Tử thì mô hình kinh doanh du lịch tại khu vực là nhu cầu phát sinh từ thực tế, tuy nhiên chưa có căn cứ quy định đầy đủ của pháp luật đất đai và một số pháp luật khác có liên quan gây khó khăn trong quá trình đầu tư xây dựng các mô hình kinh doanh dịch vụ du lịch, nhất là cơ sở lưu trú. Từ quy định của chính sách pháp luật đất đai hiện hành và tồn tại, hạn chế, bất cập của mô hình đòi hỏi cần phải bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật, có cơ chế về đất đai và pháp luật có liên quan, tạo hành lang pháp lý cho loại hình kinh tế này phát triển đúng quy định của pháp luật. 
 Nhà nước cần chú trọng công tác lập quy hoạch các điểm làng văn hoá có tiềm năng phát triển du lịch. Tổ chức thực hiện tốt các quy hoạch liên quan, quan tâm lồng ghép các chương trình mục tiêu phát triển văn hoá, tập trung ưu tiên đầu tư cho các điểm làng văn hoá có tiềm năng phát triển du lịch. Quan  điểm điểm quy hoạch cần tập trung cho phát triển du lịch bề vững  chung  của  khu vực, việc  tổ  chức không  gian  lãnh  thổ du lịch  phải  bảo đảm vừa khai  thác hợp lý tài nguyên tạo đựơc sự hấp  dẫn  qua các sản phẩm du lịch  mang tính đặc thù của khu vực. 
 Quan tâm xây dựng sản phẩm du lịch trong khu vực theo định hướng: Cần bảo đảm các nguyên tắc: Sản phẩm du lịch phải mang được linh hồn của văn hóa truyền thống, có nhiều yếu tố đặc sắc, đặc thù qua đó nâng cao giá trị, gia tăng sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm du lịch; 
 Quan tâm đầu tư nguồn lực hỗ trợ xây dựng thành công mô hình Làng văn hóa du lịch tại khu vực thị trấn Tây Yên Tử thông qua các hoạt động biểu diễn văn hóa, văn nghệ, trình diễn di sản văn hoá của dân tộc Dao trong các lễ hội truyền thống, giới thiệu ăn hóa - ẩm thực; Dịch vụ chăm sóc sức khỏe thông qua bài thuốc truyền thống của người dân tộc tạo thành một mô hình điểm trong xây dựng mô hình Làng văn hoá du lịch trên địa bàn. 
 Vận động bà con dân tộc bảo tồn, phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc, phục vụ cho phát triển du lịch. Duy trì hoạt động các Câu lạc bộ, Hợp tác xã nhằm bảo tồn văn hóa, dân tộc tại địa phương như: Câu Lạc bộ Văn nghệ; Câu lạc bộ thêu ren người Dao. Xây dựng mô hình làng văn hóa theo chuẩn nông thôn mới đảm bảo cảnh quan bản làng, tổ dân phố “Xanh – Sạch – Đẹp” thu hút du khách về thăm. 
              Quan tâm công tác tập huấn nghiệp vụ du lịch, tuyên truyền, hướng hướng dẫn người dân tham gia làm du lịch và tham gia hoạt động tập huấn do sở, ban ngành tổ chức. Quan tâm hướng dẫn người dân thực hiện các hoạt động truyền thông về điểm đến thông qua mạng xã hội với phương châm “mỗi người dân là một đại sứ du lịch”. 
 Tóm lại, khu vực Đồng Thông- Bản Mậu thuộc thị trấn Tây Yên Tử là vùng đất có tiềm năng đậm đặc cả về cảnh quan, vị trí văn hoá truyền thống. Khu vực này đầy đủ các tài nguyên để khai thác và phát triển du lịch. Tuy nhiên để trở thành một điểm du lịch trọng điểm của tỉnh còn cần rất nhiều việc phải làm, từ sự vào cuộc của nhà nước trong công tác quy hoạch, trải thảm thu hút đầu tư, tổ chức truyền thông định hướng và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp thì cũng cần có sự chung tay của cả cộng đồng doanh nghiệp và cư dân bản địa của địa phương. Hy vọng rằng trong tương lai không xa, với tiềm lực và sự vào cuộc tích cực của các bên, cái tên Đông Thông- Bản Mậu, Tây Yên Tử sẽ là một địa danh không thể không nhắc đến khi nói đến du lịch Bắc Ninh./. 
   
  Hà Yến