Khám phá

Vị trí địa lý

Thành phố biển Hải Phòng, một trong những trung tâm du lịch lớn của Việt Nam, nằm bên bờ biển Đông - Thái Bình Dương; phía bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp tỉnh Hải Dương, phía nam giáp tỉnh Thái Bình.

Hải Phòng nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 23ºC - 24ºC, lượng mưa hàng năm 1.600 – 1.800mm, quanh năm thời tiết ấm áp, bốn mùa cây trái xanh tươi.

Tài nguyên Du lịch

Với di chỉ khảo cổ Cái Bèo (Cát Bà) chứng tỏ mảnh đất này cách đây trên 6.000 năm đã có người sinh sống. Hiện nay, Hải Phòng còn giữ được nhiều di tích lịch sử, nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều đền, chùa, lăng miếu và lễ hội Chọi trâu, một lễ hội độc đáo, nổi tiếng của Đồ Sơn.

Hải Phòng nằm trong tuyến du lịch Hà Nội - Hải Phòng - vịnh Hạ Long. Hải Phòng có khu nghỉ mát Đồ Sơn vươn ra biển tới 5km. Từ Đồ Sơn bằng tàu cao tốc, du khách có thể tới thăm đảo và vườn quốc gia Cát Bà, thăm vịnh Bái Tử Long và vịnh Hạ Long (Quảng Ninh).

Giao thông

Hải Phòng có một cảng biển lớn nằm trên đường hàng hải quốc tế Đông - Tây, Bắc - Nam. Là một đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đường sắt, hàng không trong nước và quốc tế.

-  Đường bộ: Hải Phòng cách Hà Nội 102km theo quốc lộ 5. Hải Phòng nằm trong trục đường quốc lộ 10: Thái Bình -Hải Phòng- Quảng Ninh.
-  Đường sắt : Hàng ngày đều có các chuyến tàu Hà Nội - Hải Phòng – Hà Nội.
-  Đường thuỷ: Có tuyến tàu thuỷ Hải Phòng - Hạ Long – Cát Bà – Móng Cái.
-  Hàng không: Hàng ngày có chuyến bay Tp. Hồ Chí Minh - Hải Phòng.

Phúc Nghiêm tự - Di tích gắn liền với hệ thống các chùa thờ Tứ pháp

Phúc Nghiêm tự - Di tích gắn liền với hệ thống các chùa thờ Tứ pháp

11 Tháng 11, 2025

Phúc Nghiêm tự còn có tên gọi là chùa Tổ thuộc thôn Mãn Xá (Làng Mèn), tổng Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Nay là phường Song Liễu, tỉnh Bắc Ninh. Từ lâu đời, chùa Tổ đã nổi tiếng cổ kính thâm nghiêm với truyền thuyết về Phật mẫu Man Nương. Đây là điểm di tích quan trọng, gắn liền với hệ thống các chùa thờ Tứ Pháp (Chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Dàn, chùa Tướng) trong vùng. Chùa nằm trên một khu đất cao, thoáng, rộng thấp thoáng dưới những tán cây cổ thụ, bao quanh là nhà cửa dân cư và những cánh đồng lúa, hoa màu tươi tốt.         Theo truyền tích "Cổ Châu Phật bản hạnh", Phật mẫu Man Nương là người “sinh” ra Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) từ thế kỷ II đầu Công nguyên. Truyền rằng, chùa được xây trên nền nhà cũ của ông bà Tu Định - thân phụ và Ưu Di - thân mẫu của Man Nương (Tại làng Mãn Xá Đông hiện có nhà thờ Họ Man, trong gia phả và các tài liệu thư tịch mà dòng họ Man hiện còn lưu giữ cũng có ghi chép về gia đình ông bà Tu Định và A Man/ Man Nương).   Phía trước nhà chính điện Chùa           Chùa Tổ vốn được khởi dựng từ lâu đời và được trùng tu qua nhiều triều đại, đến nay chỉ còn tòa Tam Bảo thượng (Thượng điện) là công trình kiến trúc của thời Nguyễn còn bảo lưu khá nguyên vẹn. Đây là nơi thờ Phật mẫu Man Nương. Tượng Phật mẫu Man Nương được tạo tác trong tư thế tọa thiền trên tòa sen, cao gần 1,70m, được tạo giống với các tượng Tứ Pháp, khuôn mặt từ bi thánh thiện, toàn thân phủ một lớp sơn mầu mận chín đầy vẻ huyền bí linh thiêng.   Tượng Phật Mẫu Man Nương           Phía trên cao hơn là tượng ông bà Tu Định là thân phụ và thân mẫu của Man Nương, toàn thân sơn mầu nâu sẫm, áo cà sa khoác ngoài trùm kín đùi. Góc bên phải của Thượng điện tượng sư tổ Khâu Đà La, đầu trọc để trần, khuôn mặt từ bi, ngồi thiền trên tòa sen, áo cà sa khoác ngoài.   Ban chính điện của Chùa           Hiện chùa Tổ còn bảo lưu được nhiều tài liệu cổ vật quý giá như: tượng thờ, bia đá, sắc phong, hoành phi, câu đối... Trong đó, sắc phong triều vua Cảnh Hưng thứ 14 (1786) phong cho sư tổ Khâu Đà La và một sắc phong triều vua Khải Định thứ 8 (1923) phong cho Phật Mẫu Man Nương. Các tài liệu cổ vật quý giá đó đã minh chứng sự có mặt của hai con người Khâu Đà La và Man Nương là có thật, và chính họ đã tạo nên Sơn môn Dâu cùng hệ thống Tứ Pháp đầu Công nguyên. Đặc biệt chùa còn bảo lưu được một tấm bia đá còn khá nguyên vẹn, có kích thước (cao 172,5cm, rộng 98cm, dày 15cm) trán bia chạm nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, diềm chạm hoa lá, vân mây cách điệu, tên bia “Phúc Nghiêm tự sự tích bi” được dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 12, đến năm Tự Đức 26 (1873) được khắc lại, nội dung cho biết sự tích của Phật mẫu Man Nương và hệ thống Tứ Pháp.           Thời Tam quốc, Đào Hoành làm thái thú Giao Châu nghe thấy tiếng Tứ Pháp linh thiêng, đã lệnh cho xây đàn lớn, không được xâm phạm, hương hoả cung kính; mỗi khi gặp dịch bệnh thì phụng quốc mệnh cầu đảo, tai ương lập tức qua khỏi. Thời Tấn, Đào Khản làm thái thú Giao Châu, muốn rước tượng về nước, lấy hàng ngàn tráng sĩ hợp sức di chuyển cũng không được. Thời Tùy, sai Lưu Phương đến châu của ta tìm đến Tam tổ chùa Tứ Pháp yết bái để thoả sự mong mỏi. Đường Xương khi rời qua châu của ta đã đích thân đến chùa Phúc Nghiêm, lệnh cho chép lại sự tích để dâng lên vua Đường. Nước ta đến mùa thu năm đầu thời Lý Nhân Tông, mưa mãi không tạnh, ngài đã đích thân đến cầu mưa tạnh. Năm Thái Ninh thứ 3 gặp đại hạn, vua lệnh cho rước tượng Phật vào Thủy Tinh điện, thân cung pháp phục dâng hương bái lạy, đêm ấy trời đã đổ mưa. Quân Tống đến cướp nước, tướng Cao Quỳ định áp sát lấy trộm mang về. Khi đến cánh đồng Vũ Bình đã bị quân ta truy đuổi đánh cho tan tác, mọi người trong nước đều nghĩ Phật đã bị mất. Mùa đông năm ấy thả lửa đốt đồng, chỉ có đức Phật ở đó vẫn xanh tươi. Vua nghe thấy thế liền lệnh cho đón về chùa. Thời vua Lý Anh Tông gặp đại hạn, liền đón về chùa Báo Thiên, nhà vua và Thái hậu đích thân hành lễ cầu mưa, khi xa giá trở về trời đã đổ mưa lớn. Đến thời vua Lê chúa Trịnh, hàng năm sai quan triều đình đến cúng tế để giữ mạch đất nước lâu dài. Năm Canh Thân lại đại giá thân chinh đặc mệnh cho Thuyên nghĩa hầu Lê Kim Hội đến lấy trống làm hiệu, khi đại định lại gia ban áo gấm mũ trụ. Tiếp nối về sau, phàm việc cầu tạnh, cầu mưa, trước tiên đến đón Tứ Pháp về bái yết chùa Phúc Nghiêm và chùa Diên Ứng cầu đảo ba ngày. Sau mới đón Tam tổ hội cùng tế cáo, đặt làm lệ mãi như vậy. Nước Việt ta có Phật khởi phát ở nơi này.        Chùa Tổ và hệ thống chùa Tứ Pháp vùng Dâu là tinh hoa của sự dung hội giữa Phật giáo Ấn Độ khi du nhập vào nước ta với tín ngưỡng bản địa của người Việt cổ thờ các lực lượng tự nhiên (mây, mưa, sấm, chớp), để tạo nên một trung tâm tín ngưỡng tôn giáo mang đậm sắc thái dân tộc. Từ trung tâm Dâu, Phật giáo đã lan tỏa đi khắp các vùng miền của cả nước. Vì vậy, chùa Tổ và hệ thống của Tứ Pháp đã trở thành dấu tích quan trọng của quá trình hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam. Với giá trị đặc biệt về lịch sử Văn hóa,Tôn Giáo và tín ngưỡng của ngôi chùa Tổ - Phúc Nghiêm Tự, đã được Bộ Văn Hóa và Thông Tin xếp hạng và công nhận là di tích cấp Quốc Gia từ năm 2001.       Ngày nay, chùa Tổ là một trong những điểm được định hướng xây dựng bảo tồn và khai thác phát triển du lịch ở địa phương, trong không gian sản phẩm du lịch văn hoá tâm linh vùng Kinh Bắc. /.                                                                                              Út Thương